Nhằm thúc đẩy cơ giới hóa trong nông nghiệp, Chính phủ đã có nhiều chính sách liên quan đến phát triển ngành công nghiệp cơ khí Việt Nam. Cụ thể, Quyết định số 319/QĐ-TTg ngày 15/3/2018 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược phát triển ngành cơ khí Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035, trong đó các loại máy kéo phục vụ sản xuất nông nghiệp, các loại máy canh tác, bảo quản, chế biến sản phẩm nông - lâm, ngư nghiệp thuộc danh mục sản phẩm cơ khí trọng điểm được ưu tiên đầu tư phát triển.

Các loại máy nông nghiệp phổ biến tại Việt Nam

Tại Việt Nam, có nhiều loại máy nông nghiệp phổ biến được sử dụng. Các loại máy cày, máy gặt và máy trồng cây giúp nông dân tiết kiệm thời gian và công sức trong quá trình làm đất và sản xuất cây trồng. Ngoài ra, máy phun thuốc và máy tưới nước cũng rất quan trọng trong việc bảo vệ cây trồng và đảm bảo cung cấp đủ nước cho chúng. Máy chế biến nông sản cũng đóng vai trò quan trọng trong việc gia công và chế biến nông sản.

Ưu điểm và hạn chế của máy nông nghiệp Việt Nam

Máy nông nghiệp Việt Nam mang lại nhiều ưu điểm cho nông dân như tăng năng suất, tiết kiệm công sức và giảm chi phí sản xuất. Tuy nhiên, cũng có những hạn chế như đòi hỏi vốn đầu tư lớn, khó khăn trong việc bảo dưỡng và sửa chữa máy. Để đạt hiệu suất tối ưu, nông dân cần phải đảm bảo máy nông nghiệp được bảo dưỡng và sửa chữa đúng cách.

Thách thức và cơ hội trong việc ứng dụng máy nông nghiệp

Việc ứng dụng máy nông nghiệp cũng đặt ra nhiều thách thức và cơ hội. Thách thức về giáo dục và nhân lực cần được giải quyết để đảm bảo nguồn nhân lực chất lượng cao trong việc sử dụng máy. Tuy nhiên, việc sử dụng máy nông nghiệp cũng mở ra cơ hội mở rộng thị trường và xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp, từ đó tạo ra cơ hội kinh doanh và tăng thu nhập cho nông dân.

Công nghệ mới trong máy nông nghiệp Việt Nam

Máy nông nghiệp Việt Nam đang dần ứng dụng các công nghệ mới để tăng cường hiệu suất và hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp. Máy tự động hoá và máy thông minh đang được sử dụng để tự động hóa quá trình làm việc và tăng cường sự điều khiển của nông dân. Công nghệ IoT (Internet of Things) cũng đang được áp dụng trong quản lý máy móc nông nghiệp, giúp nông dân có cái nhìn tổng quan và quản lý hiệu quả hơn. Ngoài ra, trí tuệ nhân tạo cũng đang được áp dụng trong máy nông nghiệp để tăng cường khả năng xử lý thông tin và tối ưu hoá quy trình sản xuất.

Ví dụ về một số công nghệ máy nông nghiệp đang được áp dụng ở Việt Nam

Ở Việt Nam, đã có một số công nghệ máy nông nghiệp đang được áp dụng thành công. Ví dụ như trang trại thủy canh thông minh, máy thu hoạch cà phê tự động và hệ thống tưới nước tự động. Các công nghệ này giúp nâng cao hiệu suất và hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp.

Tầm quan trọng của máy nông nghiệp trong nông nghiệp Việt Nam

Máy nông nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng suất và hiệu suất sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam. Qua việc sử dụng máy, nông dân có thể tiết kiệm thời gian và công sức trong các công việc như cày xới, gặt hái, trồng cây, phun thuốc và tưới nước. Máy nông nghiệp Việt Nam không chỉ giúp tăng năng suất lao động mà còn giúp giảm chi phí sản xuất, từ đó tạo ra lợi ích kinh tế cho nông dân.

Định hướng phát triển máy nông nghiệp Việt Nam trong tương lai

Để phát triển máy nông nghiệp Việt Nam trong tương lai, cần đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng công nghệ mới trong ngành. Nâng cao năng lực sản xuất và quản lý máy nông nghiệp cũng là một mục tiêu quan trọng. Đồng thời, cần tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân trong việc sử dụng máy nông nghiệp thông qua việc cung cấp đào tạo và hỗ trợ kỹ thuật.

Kết luận: Máy nông nghiệp Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ và có tiềm năng lớn để tăng cường hiệu suất và hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, cần giải quyết những thách thức hiện tại và tạo ra những chính sách hỗ trợ để đạt hiệu suất tối ưu. Điều này sẽ góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp Việt Nam.

THỊ PHẦN MÁY NÔNG NGHIỆP THUỘC VỀ NƯỚC NGOÀI

Nghiên cứu thị phần, quy mô và tốc độ tăng trưởng doanh thu năm 2023 của máy nông nghiệp Việt Nam do Mordor Intelligence Industry Reports thực hiện, cho thấy cả nước có 1.803 doanh nghiệp cơ khí nhưng mới đáp ứng được khoảng 32% nhu cầu máy nông nghiệp tại Việt Nam.

Trong khi đó, các nhà cung cấp châu Á từ Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản đang chiếm lĩnh thị trường máy nông nghiệp tại Việt Nam. Kubota, CLAAS KGaA mbH, Yanmar, Iseki, CNH và VEAM là những công ty cung cấp máy móc nông nghiệp lớn nhất tại thị trường Việt Nam.

Đến nay, ngành cơ khí phục vụ nông nghiệp tại Việt Nam đã có sự phát triển với đa dạng các chủng loại sản phẩm, gồm: động cơ đốt trong đến 30 mã lực, máy làm đất (máy cày 4 bánh và 2 bánh), máy thu hoạch (gặt đập liên hợp, gặt lúa xếp dãy, máy tuốt lúa), máy bơm nước, máy phun thuốc sâu, máy bảo quản và chế biến (xay xát lúa gạo, máy sấy).

Thị trường máy nông nghiệp rất hấp dẫn đã thu hút nhiều doanh nghiệp lớn đầu tư vào sản xuất máy móc, thiết bị. Đơn cử như tháng 12/2022, Thaco Industries, công ty con của Tập đoàn sản xuất ô tô Thaco, đã đầu tư 550 triệu USD để sản xuất hàng loạt máy móc nông nghiệp và các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ như phụ tùng và linh kiện ô tô, sơ mi rơ moóc và các máy móc bổ sung khác để xuất khẩu và bán trong nước.

Công ty Kubota Việt Nam (thuộc Tập đoàn Kubota của Nhật Bản) đã hợp tác với nhà sản xuất chip Nvidia của Mỹ để phát triển máy kéo nông nghiệp tự lái rất tinh vi. Các máy kéo được trang bị bộ xử lý đồ họa Nvidia và trí tuệ nhân tạo, kết hợp với camera để xử lý ngay lập tức dữ liệu thu thập được để cung cấp giải pháp tiết kiệm lao động giúp giải quyết tình trạng thiếu lao động trong ngành nông nghiệp Việt Nam và Nhật Bản.

Theo Mordor Intelligence Industry Reports, thị trường máy móc nông nghiệp ở Việt Nam có tiềm năng lớn nhưng phải đối mặt với nhiều thách thức. Các loại máy sản xuất nông nghiệp trong nước chủng loại nghèo nàn, đặc biệt là máy gặt đập liên hợp hiện nay trên thị trường, chiếm đến 90% là máy nước ngoài, chỉ có 10% máy trong nước. Bên cạnh đó, máy sấy nông sản cũng chỉ đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu và ở mức độ đơn giản, tức sấy khô, nếu để đảm bảo chất lượng cao cho xuất khẩu thì chưa đạt.

Ông Phạm Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Cơ điện nông nghiệp và công nghệ sau thu hoạch (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), đánh giá ngành cơ khí nông nghiệp ở Việt Nam còn tụt hậu so với mức thiết bị trung bình ở các nước ASEAN. Các nhà sản xuất trong nước có thị phần tương đối thấp, trong khi thị phần đáng kể trong nhu cầu thị trường máy nông nghiệp hiện được cung ứng bởi các sản phẩm nhập khẩu, chiếm khoảng 60 - 70%.

Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là do công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ về cơ khí nông nghiệp còn hạn chế, chậm chuyển giao vào sản xuất. Trong khi đó, các chính sách khuyến khích của Nhà nước chưa đủ mạnh để các doanh nghiệp lớn tiên phong trong ứng dụng công nghệ, kỹ thuật hiện đại tham gia vào chuỗi cung ứng sản phẩm máy nông nghiệp, chưa hình thành nhà máy chế tạo máy nông nghiệp chuyên sâu, mở rộng thị trường quốc tế. Cơ chế hỗ trợ tín dụng đầu tư phát triển cho các cơ sở chế tạo máy nông nghiệp chưa hấp dẫn các cơ sở đầu tư cơ khí..

Nội dung bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 05-2024 phát hành ngày 29-01-2024. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:

https://postenp.phaha.vn/chi-tiet-toa-soan/tap-chi-kinh-te-viet-nam

Những năm gần đây, Chính phủ đã có nhiều chính sách hỗ trợ cơ giới hóa nông nghiệp, hiện đại hóa nông thôn. Trong đó có hỗ trợ về nhu cầu về máy nông nghiệp. Tuy nhiên, các nhà sản xuất trong nước vẫn chưa phát huy được lợi thế này. Thị trường máy nông nghiệp đang nhường chỗ cho các sản phẩm ngoại nhập và hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ.

Theo nghiên cứu của Tổng cục thống kê, tính đến hết năm 2007, cả nước đã trang bị được gần 480.000 máy kéo các loại, trong đó có khoảng 32.000 máy kéo lớn (trên 35 mã lực), 126.216 máy kéo cỡ trung (từ 18-34 mã lực), gần 320.000 máy kéo cỡ nhỏ 2 bánh (dưới 12 mã lực); có 70.289 ô tô vận tải nông thôn và trên 800.000 động cơ điện, máy phát điện và động cơ chạy xăng, diezel. Bình quân nhu cầu về máy nông nghiệp và động lực mỗi năm tăng từ 20-25%. Theo đó, mỗi năm sẽ cần khoảng 59.000 máy kéo; 150.000 động cơ; hơn 4.000 máy gặt các loại và khoảng 20.000 xe vận chuyển nông thôn. Dự kiến, đến năm 2015 các vùng kinh tế sẽ đầu tư, trang bị thêm khoảng 1,15 triệu máy kéo, động cơ các loại phục vụ cho khâu canh tác, và hàng triệu máy bơm nước phục vụ khâu tưới tiêu. Cụ thể, đến năm 2015 sẽ có khoảng 830.565 máy kéo (loại 2 bánh, 4 bánh); 1.597.666 động cơ điện, động cơ diesel; 188.683 xe tải nông thôn; 4.359.570 máy bơm nước; 32.450 thiết bị gặt lúa; 936.058 máy tuốt lúa có động cơ)… Có thể nói, đây là điều kiện để phát triển thị trường máy nông cụ, đồng thời cũng là cơ hội cho các nhà sản xuất trong nước chiếm lĩnh thị trường.

Hiện nay, thị trường sản phẩm cơ khí phục vụ nông nghiệp khá đa dạng về chủng loại, trong đó chủ yếu là hàng hóa có nguồn gốc nhập khẩu từ Nhật Bản, Trung Quốc… và hàng không rõ nguồn gốc, xuất xứ, hàng nhái, giả nhãn hiệu của các nhà sản xuất chính thống. Sản phẩm nhập từ Trung Quốc chiếm đến 60%, hàng sản xuất trong nước khoảng 30%, còn lại là máy đã qua sử dụng được nhập từ Nhật Bản, Hàn Quốc. Máy nông nghiệp sản xuất trong nước sản phẩm quy chuẩn vừa thiếu, vừa kém chất lượng. Nếu tính theo công suất trung bình của các loại máy, thì Việt Nam mới đạt 1,16 mã lực/ha canh tác, trong khi Thái Lan 4 mã lực/ha; Hàn Quốc 4,2 mã lực/ha...

Nước ta mới chỉ có một vài hãng có khả năng sản xuất máy móc tiêu dùng trong nước và xuất khẩu nhưng số lượng ít, thị phần thấp, như: Tổng Công ty Máy động lực và Máy Nông nghiệp (VEAM), Công ty Cơ khí Hà Nội và Công ty Sinco, TP Hồ Chí Minh. Theo đại diện phòng thị trường của VEAM, nhu cầu sử dụng máy móc trong sản xuất nông nghiệp ngày càng lớn, tuy nhiên khó khăn về vốn nên nông dân phải chọn những sản phẩm đã qua sử dụng, thậm chí hàng không rõ nguồn gốc. Hiện, 70% nông dân Việt Nam thiếu vốn đầu tư máy móc sản xuất nông nghiệp, nên VEAM cũng đã có nhiều biện pháp hỗ trợ từ vốn vay của ngân hàng, phối hợp, ký thỏa thuận với các ngân hàng của các tỉnh để dùng tín chấp hỗ trợ cho bà con vay vốn mua máy móc, trả dần trong 3 năm .

Tuy nhiên, không phải hộ dân nông thôn nào cũng có cơ hội được tiếp cận với nguồn vốn vay có thể mua được những sản phẩm máy móc nông nghiệp có chất lượng, trong khi nhu cầu sử dụng máy móc cho phát triển sản xuất nông nghiệp ngày càng lớn là nguyên nhân dẫn đến hàng trôi nổi, kém chất lượng, nhái mẫu mã, thương hiệu tràn lan. Nhiều nhà sản xuất trong nước chưa mặn mà với việc sản xuất các sản phẩm máy móc nông nghiệp cũng là điều kiện để thị trường máy nông nghiệp ngoại lấn át nội.

Để các nhà sản xuất máy nông cụ trong nước có thể chiếm lĩnh được thị trường, cần những cơ chế, chính sách hỗ trợ phù hợp, cụ thể cho cả nhà sản xuất lẫn người tiêu dùng. Theo Chủ tịch Hiệp hội cơ khí Việt Nam Nguyễn Văn Thụ, do thiếu vốn nên đầu tư vào sản xuất máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp cũng hạn chế. Nếu có một kế hoạch hỗ trợ nông dân mua máy như Quyết định 497 của Thủ tướng Chính phủ thì hoàn toàn có thể đặt ra kế hoạch cho việc đầu tư các nhà máy sản xuất máy nông nghiệp từ chính các nguồn tài chính đã giúp cho nông dân thì khả năng sẽ nâng dần được tỷ lệ sử dụng máy trong nước. Nhưng nguồn tài chính phải được đặt đúng địa chỉ. Có như thế mới kích cầu cho lực lượng cơ khí trong nước phát triển.

Như vậy, để các sản phẩm máy nông cụ sản xuất trong nước có thể chiếm lĩnh được thị trường nội địa, cần phải có sự nỗ lực từ cả phía doanh nghiệp, nhà nước lẫn người tiêu dùng. Trong đó, các doanh nghiệp cần đặc biệt quan tâm đến khâu sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm hạ giá thành để cạnh tranh; đồng thời phải xây dựng, phát triển hệ thống kênh phân phối sản phẩm để không chỉ bán hàng mà còn tư vấn, bảo hành sản phẩm. Nhà nước cần có các biện pháp để hạn chế doanh nghiệp gian lận thương mại, ưu tiên sử dụng sản phẩm trong nước đã sản xuất được; đồng thời, tiếp tục có những chính sách hỗ trợ cơ giới hóa nông nghiệp, nông thôn.